Top 5 Loại hình sân khấu truyền thống ở Việt Nam
Là một trong những tinh hoa của truyền thống nghệ thuật dân tộc, hàng trăm năm qua, sân khấu truyền thống (chèo, tuồng, múa rối nước…và mới hơn như cải lương, kịch dân ca.) đã in đậm dấu ấn trong đời ... xem thêm... sống tinh thần-thẩm mỹ của các thế hệ người Việt Nam.
Là một loại hình sân khấu kịch hát đậm đà tính dân tộc, với sự kết hợp nhuần nhuyễn của hàng loạt yếu tố: hát, múa, nhạc, kịch mang tính nguyên hợp vô cùng độc đáo.
Chèo là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng. Nội dung của các vở chèo lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm, mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc, đồng thời thể hiện tính dân tộc Việt. Sân khấu chèo đơn giản, với các diễn viên có thể không chuyên, biểu diễn ngẫu hứng.
Loại hình nghệ thuật truyền thống này được hình thành từ nguồn gốc cung đình Hoa Lư với vị tổ nghề Phạm Thị Trân nhưng sau đó đã phát triển mạnh ở nông thôn Việt Nam, trọng tâm ở đồng bằng Bắc Bộ và lan tỏa ra khu vực phía Bắc. Nó đạt đỉnh cao phát triển vào thời kỳ từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Đến thế kỷ 19, chèo nhận ảnh hưởng của tuồng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị.
Nghệ thuật múa rối tồn tại trên dưới 1000 năm, phát triển mạnh nhất vào thế kỷ XI - XII. Gồm 2 loại hình: múa rối cạn và múa rối nước.
Múa rối nước ra đời khoảng thế kỷ 10-11 ở đồng bằng Bắc Bộ gắn với mặt nước hồ ao đồng ruộng.
Múa / rối nước đã ra đời chừng hơn 10 thế kỷ trước ở vùng châu thổ sông Hồng. Loại hình này thường diễn vào dịp lễ, hội làng, ngày vui, ngày Tết, dùng con rối diễn trò, diễn kịch trên mặt nước. Trò rối nước cũng được coi là nét văn hóa phi vật thể đặc sắc của dân tộc Việt Nam.
Do tính đặc sắc, nên từ nghệ thuật mang yếu tố dân gian, múa rối nước đã nhanh chóng trở thành nghệ thuật truyền thống, có thể sánh ngang với tuồng, chèo là những bộ môn nghệ thuật có vị trí cao trong nền sân khấu dân tộc. Múa rối có ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng múa rối nước thì chỉ duy nhất có ở Việt Nam.
Múa rối nước ra đời cùng nền văn minh lúa nước nhưng được hình thành và phát triển vào triều đại nhà Lý (1010 - 1225). Theo thời gian, nghệ thuật múa rối nước được truyền từ đời này sang đời khác, dần dần trở thành một thú chơi tao nhã của người dân Việt Nam trong các dịp lễ hội.
Chứng cứ bằng văn tự đầu tiên ghi chép về múa rối nước Việt Nam là bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, dựng năm 1121, trong đó có đoạn viết: "Thả rùa vàng đội ba ngọn núi, trên mặt sóng dập dờn. Phơi mai vân để lộ bốn chân, dưới dòng sông lờ lững, liếc mắt nhìn lên bờ, cúi xét bầu trời lồng lộng. Trông vách dựng cheo leo, dạo nhạc thiều réo rắt. Cửa động mở ra thần tiên xuất hiện. Đều là dáng điệu thiên cung, há phải phong tư trần thế. Vươn tay nhỏ dâng khúc Hồi phong, nhăn mày thúy ngợi ca vận tốt. Chim quý từng đàn ca múa, thú lành từng đội xênh xang".
Loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền đặc sắc của Việt Nam được hình thành trên cơ sở ca vũ nhạc và các trò diễn xướng dân gian vốn có từ lâu đời và rất phong phú của dân tộc Việt Nam.
Tuồng (còn gọi là hát Bội hay hát Bộ) là môn nghệ thuật từng thâm nhập vào cuộc sống cung đình và dần dà, có nhiều gánh hát đã được chuyên nghiệp hóa. Chữ tuồng có người cho là bởi chữ tường mà ra; tức hình dung dáng dấp, cử chỉ của người đời xưa. Thế kỷ 19 là thời hoàng kim của nghệ thuật tuồng. Tại từng địa phương ở Việt Nam còn có trường phái tuồng riêng, như tuồng Quảng Nam, tuồng Bình Định, tuồng Hà Bắc, hát bội Sài Gòn (tuồng Bình Định phát triển mạnh một phần nhờ ông Đào Duy Từ và ông Đào Tấn).
Là loại hình nghệ thuật có sự tổng hợp của hát bội, đờn ca tài tử và chịu ảnh hưởng của kịch nghệ phương Tây. Trải qua hơn 100 năm lịch sử, cải lương đã trở thành một loại hình nghệ thuật sân khấu gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của người dân không chỉ ở vùng đất Nam Bộ mà có sự lan tỏa ra cả nước.
Cải lương là nghệ thuật kịch hát của miền nam Việt Nam, trên cơ sở dân ca vùng đồng bằng sông Cửu Long và đờn ca tài tử Nam Bộ. Nghệ thuật này ra đời vào năm 1917, chịu nhiều ảnh hưởng của âm nhạc Tây phương hơn so với các nghệ thuật thuần túy như hát chèo và hát bội. Đề tài của các tuồng cải lương thường liên quan đến các điển tích và những vấn đề xã hội. Hiện nay, cải lương vẫn còn thịnh hành, đặc biệt là tại miền nam Việt Nam.
Xuất hiện từ sau Cách mạng tháng Tám, dân ca kịch hình thành và phát triển dựa trên nền tảng các làn điệu dân ca, các hình thức diễn xướng văn hóa dân gian đặc sắc, đặc trưng cho mỗi vùng miền ví dụ như: Dân ca Bài chòi, dân ca Huế, dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh...
Kịch bài chòi
Ca kịch Bài chòi bắt nguồn từ thú chơi bài chòi của người dân Quảng Nam – Đà Nẵng, về sau phát triển thành hình thức biểu diễn thơ tự sự, kể chuyện. Âm nhạc bắt nguồn từ các làn điệu dân ca miền Trung như Quảng Nam - Đà Nẵng, Huế, Quảng Trị..., có các điệu chính là xuân nữ, nam xuân và xàng xê. Dàn nhạc đơn giản chỉ có đàn nhị, sanh sứa, sau có thêm đàn nguyệt, sáo và sinh tiền. Điều độc đáo của ca kịch Bài chòi là một diễn viên có thế thủ một lúc nhiều vai, với dàn nhạc đơn sơ nhưng vẫn lôi cuốn khán giả (tương tự như Pansori của Hàn Quốc). Bài chòi được phát triển chuyên nghiệp từ sự ra đời của Đoàn ca kịch Liên khu V với nghệ sĩ tiêu biểu như Lệ Thi.
Kịch ca Huế
Ca Huế là một thể loại âm nhạc cổ truyền của xứ Huế, Việt Nam, bao gồm ca và đàn, ở nhiều phương diện khá gần gũi với hát đào, làm từ dòng nhạc dân gian bình dị và cung đình nhã nhạc,thanh cao.